Sự xuất hiện của tâm thần sinh học, trong vài thập kỷ qua, được kỳ vọng sẽ làm rõ vấn đề, bằng cách phân tích chi tiết những bất thường trong não đã dẫn đến tất cả các loại rối loạn tâm thần. Nhưng mục tiêu đó chưa đạt được — cũng không có khả năng đạt được, trong thời gian này.
Tuy nhiên, sự bất thành của nỗ lực hứa hẹn sẽ truyền cảm hứng cho một sự thay đổi trong văn hóa của khoa học hành vi trong những thập kỷ tới. Con đường phía trước sẽ đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nhà khoa học và các cá nhân mà họ đang cố gắng tìm hiểu, một nỗ lực chung dựa trên sự đánh giá cao vị thế của khoa học và tại sao khoa học lại chưa có bước tiến mới.
“Phải có nhiều hơn sự cho đi và nhận lại giữa các nhà nghiên cứu và những người mắc phải các rối loạn này,” Tiến sĩ Steven Hyman, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tâm thần Stanley tại Viện Broad của M.I.T. và Harvard, cho hay. “Nghiên cứu không thể được thực hiện nếu thiếu bệnh nhân và họ phải tin tưởng rằng nghiên cứu sẽ rất hứa hẹn.”
Quy trình của Science Times trùng khớp gần như chính xác với sự phá vỡ và xây dựng lại về tâm thần học. Trong 40 năm qua, lĩnh vực này đã tự làm mới từ trong ra ngoài, thay đổi hoàn toàn cách các nhà nghiên cứu và công chúng nói về nguyên nhân gốc rễ của sự rối loạn tâm thần dai dẳng.
Kế hoạch chi tiết cho việc tái cấu trúc là bản sửa đổi năm 1980 của hướng dẫn lĩnh vực tâm thần học, hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, trong đó loại trừ một cách hiệu quả các giải thích tâm lý.
Nhiều nghiên cứu về nguyên nhân gốc rễ của sự rối loạn tâm thần dai dẳng (Nguồn: cannabisexpress.com.au)
Qua rồi cái thời phải dùng các từ ngữ xa hoa về những xung đột tiềm ẩn, cùng với những lý thuyết trống rỗng về việc “làm mẹ” không chính xác hoặc không đầy đủ. Trầm cảm trở thành một nhóm các triệu chứng và hành vi; cũng như rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt, tự kỷ và những tình trạng còn lại.
Các nhà nghiên cứu giờ đây đã có các nhãn hiệu gọn gàng hơn để làm việc; các công cụ tinh vi hơn, bao gồm M.R.I, mô hình động vật và phân tích di truyền, để hướng dẫn các nghiên cứu về não; và hiểu rõ hơn về lý do tại sao các loại thuốc và dịch vụ tư vấn – trị liệu tâm lý sẵn có làm giảm triệu chứng cho nhiều bệnh nhân.
Các nhà báo khoa học, và độc giả cũng đã có thể hiểu các từ vựng mới một cách dễ dàng hơn. Theo thời gian, các vấn đề tâm thần đã trở thành rối loạn tâm thần, sau đó là rối loạn não bộ, có lẽ do lỗi hệ thống dây điện, sự “mất cân bằng hóa học” hoặc gen.
Nhưng khoa học thực tế đã không ủng hộ những diễn giải đó. Mặc dù có hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu và hàng nghìn bài báo nhưng tâm thần sinh học mang lại cho các bác sĩ và bệnh nhân rất ít giá trị thực tế, chứ chưa nói đến nguyên nhân hay cách chữa trị.
Tuy nhiên, sự thất bại đó mang đến hai hướng dẫn có giá trị cho 40 năm nghiên cứu tiếp theo.
Một là hệ thống chẩn đoán tiêu chuẩn hiện nay về tâm thần học — cấu trúc được chiếu sáng tốt, với tất cả các nhãn hiệu — không ánh xạ tốt vào bất kỳ hiện tượng sinh học chung nào. Theo những thông tin về trầm cảm thì đây không phải là một căn bệnh mà là rất nhiều, thể hiện những khuôn mặt khác nhau ở những người khác nhau. Tương tự như vậy đối với chứng lo âu dai dẳng, căng thẳng sau chấn thương và các vấn đề về nhân cách chẳng hạn như rối loạn nhân cách ranh giới.
Kết quả là, nơi tốt nhất để các nhà khoa học sinh học tìm ra lực kéo là với những cá nhân có khả năng di truyền cao, vấn đề được xác định hẹp. Khu vực nghiên cứu này đã đi vào nhiều ngõ cụt, nhưng có những dẫn dắt đầy hứa hẹn.
Năm 2022, các nhà nghiên cứu tại Viện Broad đã phát hiện bằng chứng mạnh mẽ cho thấy sự phát triển của chứng tâm thần phân liệt gắn liền với gen điều hòa cắt tỉa synap, một quá trình tái tổ chức não bộ tự nhiên tăng lên trong giai đoạn thanh thiếu niên.
“Chúng tôi hiện đang theo dõi kỹ phát hiện này,” Tiến sĩ Hyman chia sẻ. “Chúng tôi nợ những người đang đau khổ vì chẩn đoán này.”
Các nhà khoa học cũng thấy trước một bước đột phá trong việc hiểu về di truyền của bệnh tự kỷ. Tiến sĩ Matthew State, trưởng khoa tâm thần học tại Đại học California, San Francisco, cho biết trong một tập hợp những người trên phổ tự kỷ, “10 gen liên quan hàng đầu có tác động rất lớn, vì vậy một thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen là hợp lý.”
Hướng dẫn thứ hai liên quan đến tác động của sinh học
Mặc dù có một vài trường hợp ngoại lệ quan trọng nhưng sự khác biệt có thể đo lường được trong sinh học não bộ dường như chỉ đóng một vai trò nhỏ trong việc làm tăng nguy cơ phát triển các vấn đề tâm thần dai dẳng. Di truyền chắc chắn đóng một vai trò, nhưng không phải là một “nguyên nhân” ở hầu hết những người được chẩn đoán.
Các yếu tố nguy cơ còn lại được tạo ra do trải nghiệm: sự kết hợp lộn xộn của chấn thương, sử dụng chất gây nghiện, mất mát và khủng hoảng danh tính tạo nên bản chất của một cá nhân, tiền sử cá nhân. Sinh học không có gì để nói về những yếu tố đó, nhưng mọi người thì có. Hàng triệu cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc phục hồi hoàn toàn hoặc học cách kiểm soát rối loạn của họ theo những cách mang lại cho họ một cuộc sống toàn diện. Cùng nhau, chúng tạo thành một kho dữ liệu khoa học chuyên sâu mà cho đến gần đây vẫn chưa được khai thác.
Gail Hornstein, giáo sư tâm lý học tại Đại học Mount Holyoke, hiện đang thực hiện một nghiên cứu về những người tham dự các cuộc họp của Mạng lưới Hearing Voices, một nhóm dành cho người nghiện rượu ẩn danh cấp cơ sở, nơi mọi người có thể nói chuyện với nhau về các vấn đề sức khỏe tâm thần của họ.
Bệnh nhân tâm thần có thể phục hồi hoặc học cách kiểm soát rối loạn (Nguồn: sanantoniobehavioral.com)
Nhiều người tham gia là bệnh nhân cũ trong hệ thống tâm thần, những người đã nhận được nhiều chẩn đoán và quyết định không tiếp tục chăm sóc y tế. Nghiên cứu sẽ phân tích các trải nghiệm, các kỹ thuật cá nhân để kiểm soát rối loạn của họ và các đặc điểm riêng biệt của các nhóm Hearing Voices góp phần tạo nên hiệu quả của các kỹ thuật đó.
“Khi mọi người có cơ hội tham gia vào cuộc trò chuyện liên tục, chuyên sâu với những người có trải nghiệm tương tự, cuộc sống của họ được thay đổi,” Tiến sĩ Hornstein, người đã ghi chép về mạng lưới và sự phát triển của nó tại Hoa Kỳ, chia sẻ. “Chúng tôi bắt đầu với khuôn khổ hiểu biết riêng của một người và di chuyển từ đó.”
Bà nói thêm: “Chúng tôi đã đánh giá thấp sức mạnh của các tương tác xã hội. Chúng tôi đã thấy những người đã ở trong hệ thống trong nhiều năm, dùng tất cả các loại thuốc có sẵn. Làm thế nào họ lại có thể hồi phục thông qua quá trình trò chuyện với người khác cơ chứ? Điều đó đã xảy ra bằng cách nào? Đó là câu hỏi chúng tôi cần trả lời.”
Để tiếp tục điểm dừng của 40 năm qua, các nhà khoa học sẽ cần phải làm việc không chỉ từ dưới lên, về vấn đề di truyền, mà còn phải từ trên xuống, theo hướng dẫn của những cá nhân đã chiến đấu với bệnh tâm thần và có được kết quả tốt đẹp.
Chuyên môn của họ chứa đầy nỗi đau của việc bị hiểu lầm, và thường xuyên bị ngược đãi. Nhưng nó cũng là loại chuyên môn mà các nhà nghiên cứu sẽ cần nếu họ hy vọng xây dựng một nền khoa học thậm chí có thể mô tả từ xa, không mang tính dự đoán như trước, sự đau khổ về tinh thần của con người.
Bài viết được dịch theo When Will We Solve Mental Illness? xuất bản ngày 18/11/2018 trên WebMD.