Hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) không được chẩn đoán ảnh hưởng đến hàng triệu người trưởng thành và mối quan hệ tình cảm của họ.
Với Max Stevenson*, một khoản thanh toán trễ gần như là giọt nước tràn ly. Vợ của anh, Elizabeth*, lại một lần nữa quên thanh toán hóa đơn. “Tôi có hai con với Elizabeth, nhưng Elizabeth cũng là một đứa con thứ ba của tôi,” anh nói. “Tôi không chỉ đang cố gắng sắp xếp cuộc sống cá nhân, công việc và cả việc nội trợ bận rộn của mình, mà còn phải cố gắng hướng dẫn cho cô ấy. Tôi cảm thấy cô đơn và thực sự suy sụp.”
Max nhanh chóng nói thêm rằng Elizabeth là người phụ nữ cực kỳ sáng tạo và tuyệt vời. Nhưng đã nhiều năm, chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở người lớn không được điều trị đã đe dọa chia rẽ hai người họ.
Câu chuyện của họ không hề bất thường. Tiến sĩ Kevin R. Murphy, trưởng Phòng khám ADHD dành cho người trưởng thành ở Trung tâm Massachusetts và là phó giáo sư nghiên cứu tại khoa tâm thần học tại Đại học Y khoa SUNY Upstate ở Syracuse cho biết, mối quan hệ rắc rối khá phổ biến ở những người trưởng thành mắc hội chứng ADHD chưa được xử lý
“Thực tế, việc ADHD không ảnh hưởng đến hôn nhân còn hiếm gặp hơn.” Ông nói.
Dù vậy thì tin tốt là những người trưởng thành mắc ADHD vẫn có khả năng điều trị cao, theo Ned Hallowell, một bác sĩ tâm thần chuyên điều trị ADHD tại trung tâm Hallowell ở New York và Boston, đồng tác giả của cuốn sách bán chạy về ADHD ở người trưởng thành “Driven to Distraction” cho biết. “Chẩn đoán đúng bệnh có thể xoay chuyển hôn nhân và cuộc sống theo chiều hướng tốt.” Ông nói.
Phần lớn các nghiên cứu ADHD tập trung vào trẻ em. Theo trung tâm kiểm soát và phòng tránh bệnh tật, 9.5% trẻ em từ 4 đến 17 tuổi được chẩn đoán mắc hội chứng này. Một vài trẻ trong số đó có vẻ như đã khỏi bệnh khi lớn lên, song với những người khác, các triệu chứng vẫn tồn tại đến tuổi trưởng thành. Trong một nghiên cứu năm 2006, tiến sĩ Russell Barkley, một bác sĩ thần kinh lâm sàng tại Đại học Y khoa Nam Carolina thuộc Charleston và đồng sự đã xác nhận khoảng 4,4% dân số trưởng thành mắc chứng ADHD (American Journal of Psychiatry, Vol. 163, No. 4).
Barkley nói, mặc dù hội chứng này gây khổ sở cho hàng triệu người trưởng thành, nhưng nó vẫn chưa được chẩn đoán đúng mức. Nghiên cứu của ông cũng phát hiện ra chỉ 10% người trưởng thành gặp các triệu chứng ADHD được chẩn đoán và điều trị.
Hội chứng ADHD gây khổ sở cho hàng triệu người trưởng thành, nhưng nó vẫn chưa được chẩn đoán đúng mức. (Nguồn healthline.com)
Một phần do những quan niệm sai lầm về căn bệnh này. “Hàng thập kỷ nay nó được coi là rối loạn thời thơ ấu, và mọi người đều nghĩ rằng nó đã giảm rõ rệt khi đến tuổi thiếu niên.” Ông nói. “Trong nhiều thập kỷ, nhiều chuyên gia tâm thần không được đào tạo về hội chứng này, đặc biệt là nếu họ chuyên về bệnh nhân trưởng thành.” Điều này cuối cùng đã thay đổi vào nửa cuối giai đoạn 1990, và nhận thức cùng sự giáo dục về ADHD ở người trưởng thành tiếp tục được cải thiện.
Đúng là phần tăng động của ADHD thường giảm dần theo tuổi tác. Song các triệu chứng âm ỉ không kém khác có thể kéo dài đến tuổi trưởng thành. Các dấu hiệu điển hình bao gồm gặp khó khăn trong việc tập trung, sắp xếp, lên kế hoạch và hoàn thành.
“Cảm giác như có một lễ hội trong đầu tôi,” Elizabeth Stevenson nói. “Não của tôi đi theo quá nhiều hướng khác nhau, rất khó để nhìn vào một danh sách và chọn ra điều gì tôi cần làm trước.”
ADHD là một chứng rối loạn sinh học thần kinh. Các triệu chứng được cho là xuất phát từ sự kém hoạt động ở vỏ não trước – bảng điều khiển não bộ quy định sự chú ý, tự kiểm soát và vận hành. Những người mắc ADHD thường cho thấy sự suy giảm lưu lượng máu, chuyển hóa glucose và giảm mức độ chất dẫn truyền thần kinh dopamine và norepinephrine trong vùng não này, Murphy cho biết.
Hội chứng này không đơn giản là thiếu hụt sự chú ý như cái tên của nó. “Các nghiên cứu cho thấy nó là một rối loạn của chức năng điều hành,” Barkley cho biết. Chức năng điều hành liên quan đến năm khả năng thuộc hoạt động thường ngày, bao gồm: quản lý thời gian, sắp xếp tổ chức, tạo động lực, tập trung và kỷ luật. Ông và Murphy gần đây đã chỉ ra trong Tạp chí Tâm lý học và đánh giá hành vi rằng 89-98% người trưởng thành mắc ADHD bị suy yếu ở cả năm khả năng này.
Barkley cho biết, “Rối loạn này ảnh hưởng gần như đến mọi mặt trong cuộc sống của bạn. Nó gây ra sự suy yếu đáng kể trong nhiều lĩnh vực của đời sống hơn các rối loạn ngoại trú khác”, gồm có lo âu và trầm cảm. “Trường học, nghề nghiệp, tiền bạc, danh tiếng, tình dục, công việc, nuôi dạy con – nó tác động đến tất cả.”
1. Hôn nhân bấp bênh
Như gia đình Stevensons đã biết, hội chứng ADHD không được chẩn đoán có thể gây tổn hại nặng nề đến các mối quan hệ. Các phát hiện nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ lệ ly hôn và ADHD chưa rõ ràng, song nhiều nghiên cứu khác đã phát hiện ra một liên kết giữa chúng. Trong một bài báo trên Tâm lý học toàn diện, Barkley và Murphy đã báo cáo rằng bệnh nhân mắc ADHD có kết hôn nhiều lần hơn, và họ cùng bạn đời của mình báo cáo mức độ hài lòng trong hôn nhân thấp hơn so với những người không mắc ADHD. Cùng với đồng tác giả, tiến sĩ Mariellen Fischer, Barkley và Murphy cũng đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn sách năm 2007 của họ “ ADHD in Adults: What the Science Says.”
Melissa Orlov, một chuyên gia tư vấn hôn nhân chuyên về ADHD và tác giả của cuốn sách xuất bản năm 2010 “The ADHD Effect on Marriage” cho biết, trong các mối quan hệ mà một người mắc ADHD không được chẩn đoán, thì giữa hai người sẽ phát triển kiểu quan hệ cha mẹ – con cái.
“Người không mắc ADHD sẽ chịu trách nhiệm cho mọi thứ, còn nửa kia mắc ADHD sẽ dần dần cảm thấy mình như một đứa con trong mối quan hệ này,” cô nói. “Điều này không lãng mạn chút nào.”
Các hình mẫu quen thuộc khác cũng xảy ra. Những cá nhân mắc ADHD thường có kiểu kém cỏi kinh niên dẫn đến trầm cảm và bất an, Hallowell cho biết. “Họ cảm thấy xấu hổ và thất vọng. Nếu không được chẩn đoán, họ không thể tận dụng tài năng của mình. Hôn nhân trở nên bấp bênh vì điều đó.”
Và bởi vì những người mắc ADHD dễ bị xao lãng, họ thường quên không làm việc nhà như đã hứa, và dường như ngó lơ bạn đời và con cái của mình. “Nửa còn lại không mắc ADHD cho đó là sự lười biếng và không quan tâm đến gia đình, “ Orlov nói. Sự giận dữ và phẫn nộ tăng lên, mặc dù người không mắc ADHD thường không biết họ đã làm gì sai. “Các triệu chứng đang bộc lộ rõ ràng trong cuộc hôn nhân, và họ không hề biết đến nó”, cô nói.
Những người mắc ADHD dễ bị xao lãng, họ thường quên không làm việc nhà như đã hứa và ngó lơ bạn đời và con cái của mình (Nguồn: marriagerescue.org)
Đáng tiếc là tư vấn hôn nhân kiểu truyền thống thường không giúp ích được gì trừ khi ADHD được chẩn đoán và điều trị. “Nhiều người đã cố gắng đến chỗ các chuyên gia tâm lý và tư vấn hôn nhân không được đào tạo về ADHD và bỏ qua việc căn bệnh này cũng có thể là nguồn gốc của các vấn đề trong hôn nhân.” Murphy cho biết. “Hậu quả là, các chuyên gia trị liệu đã bỏ lỡ cơ hội, đó cũng là lý do chính vì sao nhiều cặp đôi ADHD nói rằng các nỗ lực trước đây tại những trung tâm tư vấn hôn nhân truyền thống không đem lại kết quả.”
Đây chắc chắn là trường hợp của gia đình Stevensons. Khoảng 11 năm trước, con trai họ được chẩn đoán ADHD – và một tia sáng lóe lên trong đầu Elizabeth khi cô nhận ra những triệu chứng trong chính hành vi của mình. Sau đó cô cũng được chẩn đoán, nhưng phải mất nhiều năm để tìm được ai đó có thể giúp đỡ mình. “Chúng tôi tìm đến những chuyên gia trị liệu hôn nhân chuyên nghiệp, các chuyên gia trị liệu cá nhân. Không một ai nhắc đến ADHD,” Elizabeth nói. “Với một mảnh bị khuyết, cứ như thể đây là vấn đề khổng lồ không thể nào giải quyết nổi.”
Bước đầu tiên để giải quyết vấn đề này là được chẩn đoán chính xác. Sau đó, điều quan trọng là xây dựng lại sự đồng cảm với nhau, Orlov nói. Sau nhiều năm không được chẩn đoán ADHD, nhiều lớp bất mãn đã được tạo ra và chồng lên nhau. Để bóc những lớp này, các cặp vợ chồng cần gây dựng lại sự đồng cảm với người kia. “Điều này không có nghĩa là bạn không được xù lông lên mỗi khi bực tức, nhưng bạn có lý do để vượt qua nó.”
Cô nói thêm, thông thường người mắc ADHD thực sự muốn mọi chuyện tốt đẹp hơn. “Họ không muốn phải chịu đựng sự thất vọng từ nửa kia. Họ vẫn luôn cố gắng, nhưng vì họ không biết về ADHD, nên họ không biết sửa chữa như thế nào,”. “Cố gắng nhiều hơn không có tác dụng. Bạn phải cố gắng theo cách khác.”
2. Chẩn đoán y khoa
Hallowell cho rằng việc giáo dục cho bệnh nhân về ADHD là vô cùng quan trọng. Thông thường, những người mắc rối loạn này cảm thấy thiếu thốn và có lòng tự trọng thấp sau nhiều năm không phát huy hết tiềm năng của bản thân. Thông qua trị liệu tâm lý chuyên sâu cùng bác sĩ giàu kinh nghiệm kết hợp với sự hỗ trợ tích cực từ gia đình, những cá nhân bị ảnh hưởng có thể vượt qua nỗi ngại ngùng và xấu hổ vì các triệu chứng của mình và nhận ra thế mạnh của bản thân. “Bệnh nhân cần được chẩn đoán để có kết quả tốt nhất.”
Barkley nói thêm, các nhà tâm lý học bắt đầu điều chỉnh phương pháp tiếp cận của họ với chứng rối loạn này, và một số nhóm nghiên cứu gần đây đã thiết kế chương trình huấn luyện cho ADHD. “Có các chương trình nhận thức hành vi mới được phát triển dành riêng cho người trưởng thành mắc ADHD, tập trung vào các chức năng điều hành,” ông cho biết.
Những người chồng có vợ mắc ADHD cũng được hưởng lợi từ việc giáo dục và trị liệu. Điều quan trọng là cả hai đều phải tin tưởng rằng ADHD “là một chẩn đoán y khoa, không phải chẩn đoán đạo đức,” Hallowell nói. Vì thế họ có thể bỏ qua những lời trách móc đổ lỗi và hướng đến cải thiện mối quan hệ. “Tất cả những việc này đều quan trọng, và các bác sĩ lâm sàng thường không dành thời gian làm điều đó.”
Khi ADHD đã được xác định và xử lý, các cặp đôi có thể bắt đầu công cuộc hàn gắn mối quan hệ của mình. “Điều quan trọng là người không mắc ADHD không chỉ tay vào nửa kia và nói rằng đây là vấn đề của riêng họ” Murphy nói. “Cần có sự chia sẻ trách nhiệm và thấu hiểu rằng đây là một vấn đề gia đình, không phải vấn đề của riêng bệnh nhân.”
Hầu hết các bệnh nhân cũng nhìn ra lợi ích đáng kể từ việc trị liệu bằng thuốc. Thuốc có tác dụng với 70-80% người trưởng thành mắc ADHD (Journal of Clinical Psychiatry), và thường đưa đến những cải thiện to lớn. “Khi thuốc có tác dụng, nó cũng gây ấn tượng rõ rệt và hiệu quả như kính mắt vậy,” Hallowell nói.
Thuốc có tác dụng với 70-80% người trưởng thành mắc ADHD (Nguồn: medicalnewstoday.com)
Elizabeth Stevenson bắt đầu dùng thuốc khoảng một năm trước và cô cùng với Max đều nhận thấy sự cải thiện rõ ràng ngày lập tức. “Khi sử dụng thuốc, tôi có thể làm việc một cách có tổ chức và theo thứ tự hơn. Giống như những vòng xoáy trong não tôi đã ngừng lại,” cô cho biết.
Gia đình Stevensons đã làm việc với Orlov vào năm ngoái. Mặc dù vẫn còn đang trong quá trình hồi phục, song họ cũng nói rằng mối quan hệ của họ đã trở nên bền chắc hơn sau khi cuối cùng cũng tìm ra một người có thể điều trị các vấn đề tiềm ẩn xung quanh chứng ADHD của Elizabeth. “Chúng tôi đã gặp may,” Max nói.
Với sự kết hợp hoàn hảo giữa điều trị bằng thuốc và tư vấn tâm lý, hầu hết những người mắc ADHD có thể khắc phục tình trạng này. “Qua các số liệu, ta thấy rối loạn này có khả năng điều trị thành công cao hơn rối loạn lo âu, trầm cảm hay các rối loạn ngoại trú khác. Vấn đề không phải là chúng ta không có những phương pháp điều trị ADHD tốt, mà là phần lớn mọi người không biết họ mắc phải rối loạn này,” Barkley nói. “Đây là rối loạn có khả năng điều trị cao nhất trong tâm lý học, không có gì phải bàn cãi.”
Hallowell kêu gọi các chuyên gia sức khỏe tinh thần tìm hiểu thêm về rối loạn này để những người bị mắc phải có thể tìm kiếm sự giúp đỡ nhằm đưa cuộc sống của họ trở lại đúng hướng. Với mục đích này, ông, Murphy và Orlov đã phát triển một hội thảo giáo dục thường xuyên cho tư vấn viên gọi là “Ảnh hưởng của ADHD lên các cặp đôi.”
Barkley đồng ý rằng các chuyên gia sức khỏe tinh thần cần hiểu rõ hơn về ADHD. “Đó là một rối loạn có cơ sở vững chắc phát sinh từ các yếu tố thần kinh và di truyền,” ông nhấn mạnh. Và bởi vì nó có khả năng điều trị cao, nên đó là một ngành chuyên môn đem lại sự hài lòng rất lớn. “Nếu bạn muốn chuyên về một chứng rối loạn nào đó, hãy chọn cái này,” ông nói. “Nó sẽ là nghề đáng làm nhất mà bạn có thể có được.”
*Tên nhân vật đã được thay đổi
Bài viết được dịch theo ADHD among preschoolers xuất bản trên tờ American Psychological Association