Nghiên cứu mới nhất đang tìm hiểu về mối liên hệ giữa các phương pháp điều trị trầm cảm trong thai kỳ với nguy cơ mắc chứng tự kỷ, nhưng hiện tại thì nguy cơ tổng thể vẫn còn ở mức thấp.
Khoảng 10% phụ nữ mang thai dùng thuốc chống trầm cảm, và phần lớn họ bắt đầu dùng trước khi có thai. Các loại thuốc, phổ biến nhất trong số đó là các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc hay SSRI, là yếu tố rất quan trọng trong việc khám và điều trị trầm cảm. Phụ nữ mang thai được cảnh báo không nên dùng các loại thuốc này vì chúng có thể gây hại cho thai nhi đang phát triển. Một số nghiên cứu đã xác định mối liên hệ giữa các loại thuốc với nguy cơ dị tật bẩm sinh cao hơn, trong khi các nghiên cứu khác phát hiện ra rằng nguy cơ này đã bị thổi phồng.
Liệu sử dụng thuốc trầm cảm khi mang thai có thực sự tăng nguy cơ tự kỷ ở trẻ sau sinh (Nguồn: hellobacsi.com)
Trong nghiên cứu mới nhất, công bố trên tạp chí JAMA Pediatrics, các nhà khoa học đã cố gắng làm rõ mức độ an toàn của thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ. Họ xem xét mối liên hệ giữa thuốc kê toa và chứng tự kỷ ở những trẻ có mẹ sử dụng thuốc khi mang thai. Phân tích hiện tại đã phát hiện nguy cơ mắc chứng tự kỷ cao hơn một chút ở những trẻ có mẹ dùng thuốc chống trầm cảm, nhưng các chuyên gia cho rằng nguy cơ này vẫn còn ở mức thấp.
Các nghiên cứu trước đây về nguy cơ tương tự đã cho thấy các kết quả mâu thuẫn; một số nghiên cứu đã phát hiện mối liên kết trong khi một số khác thì không. Nhưng hầu hết các nghiên cứu trước đó chỉ được thực hiện trong một nhóm nhỏ mẹ và bé vì vậy Anick Berard, giáo sư dịch tễ học chu sinh tại Đại học Montreal, và các đồng nghiệp của bà đã chuyển sang một nhóm đối tượng lớn hơn nhiều – tất cả các trẻ được sinh ra ở Quebec trong khoảng thời gian từ năm 1998 đến 2009. Họ xác định mối liên hệ giữa việc mẹ bầu có mua thuốc chống trầm cảm một năm trước khi mang thai, ngay trước khi mang thai hay tại bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ với tỷ lệ chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ sơ sinh.
Trong số tất cả các ca sinh đơn, nguy cơ là cao nhất ở những sản phụ bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba, so với những sản phụ dùng thuốc trong tam cá nguyệt đầu tiên. Berard cho hay điều đó có ý nghĩa bởi trong khi sự phát triển các cơ quan xảy ra sớm thì sự phát triển não bộ – có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc chứng tự kỷ – lại bắt đầu muộn hơn trong thời kỳ mang thai.
Vì có dữ liệu kê toa nên nhóm của Berard cũng có thể xem liệu từng loại chống trầm cảm có ảnh hưởng khác nhau đến nguy cơ mắc chứng tự kỷ hay không. Các SSRI đi kèm với nguy cơ cao gấp hai lần. Berard nhấn mạnh rằng nguy cơ này là nhỏ so với tỷ lệ mắc chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh. Trung bình, khoảng 1% trẻ sinh ra được chẩn đoán mắc chứng rối loạn phát triển. Nguy cơ tương đối lớn hơn trong nghiên cứu này làm tăng tỷ lệ đó lên gần 2%—một sự gia tăng tương đối nhỏ.
Các chuyên gia khác cảnh báo rằng các phát hiện không hẳn sẽ giúp ích cho các phụ nữ đang đau đầu với việc có nên tiếp tục (hoặc trong một số trường hợp là có nên bắt đầu) dùng thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ hay không. Việc điều trị trầm cảm là rất quan trọng để có một thai kỳ khỏe mạnh, vì các bà mẹ khỏe mạnh về tinh thần sẽ có thể chăm sóc bản thân và em bé đang lớn tốt hơn.
Có nên sử dụng thuốc chống trầm cảm khi mang thai không (Nguồn: bebesalud.net)
Leandra Berry, phó giám đốc trung tâm tự kỷ dịch vụ lâm sàng tại Bệnh viện Nhi Texas, người không tham gia nghiên cứu, chia sẻ: “Thật không may, tôi không nghĩ rằng nghiên cứu này thực sự có thể giúp chúng tôi hiểu thêm về cách thuốc chống trầm cảm ảnh hưởng đến thai nhi đang phát triển”. Mặc dù nghiên cứu được thực hiện trên số lượng lớn phụ nữ nhưng vẫn không thể chắc chắn rằng các thuốc chống trầm cảm chứ không phải chứng trầm cảm hay lo âu dẫn đến việc phải dùng thuốc đã góp phần gây ra nguy cơ mắc chứng tự kỷ.
Berry nói thêm: “Nghiên cứu trước đây cho thấy mối liên kết giữa các tình trạng sức khỏe tâm thần của người mẹ bao gồm trầm cảm, rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt với nguy cơ rối loạn phổ tự kỷ (ASD) gia tăng ở bé. Chỉ riêng chứng trầm cảm cũng có thể giải thích cho nguy cơ mắc ASD tăng nhẹ ở những trẻ được sinh ra bởi những bà mẹ phơi nhiễm với thuốc chống trầm cảm. Các nhà nghiên cứu không thể giải thích được việc dùng thuốc chống trầm cảm có đóng góp đặc biệt gì nếu không bị trầm cảm hoặc bị một bệnh lý sức khỏe tâm thần.”
Có thể có điều gì đó ở những phụ nữ được kê toa thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ đã khiến họ khác biệt với những phụ nữ không được kê toa và sự khác biệt đó có lẽ liên quan đến chứng tự kỷ. Tiến sĩ Bryan King, giám đốc trung tâm tự kỷ bệnh viện nhi Seattle, người đã viết một bài xã luận đi kèm với nghiên cứu, cho rằng những phụ nữ tiếp tục dùng thuốc chống trầm cảm trong thai kỳ cũng có thể bị trầm cảm hoặc lo âu nặng hơn so với những phụ nữ có thể cũng bị trầm cảm nhưng không được kê toa thuốc.
Đó cũng có thể là một yếu tố trong nguy cơ mắc chứng tự kỷ, vì một số nghiên cứu di truyền đã cho thấy mối liên hệ giữa các gen liên quan đến chứng trầm cảm và các gen liên quan đến chứng tự kỷ. Ông cho biết “rất khó để tìm hiểu sâu về tín hiệu được tìm thấy trong nghiên cứu này và quy nó cho các loại thuốc cụ thể.”
Việc điều trị trầm cảm khi mang thai là cần thiết (Nguồn: useful.vn)
Bà thừa nhận các kết quả của mình còn hơi thô theo một số khía cạnh. Nghiên cứu không tính đến mức độ nghiêm trọng của chứng trầm cảm, liều thuốc chống trầm cảm hay lượng thuốc mà họ thực sự đã dùng.
Berard chỉ có thể liên hệ việc mua thuốc như một dấu hiệu cho thấy người phụ nữ đã dùng ít nhất một viên thuốc; một số có thể đã dùng toàn bộ toa thuốc, thường kéo dài trong một tháng, trong khi một số khác thì không.
Nhưng bà hy vọng rằng những phát hiện này sẽ đóng vai trò là bước đệm để tiến hành thêm các nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu phân tích liều thuốc chống trầm cảm, nhằm làm rõ các tác động dài hạn của các loại thuốc dùng trong thai kỳ đối với sự phát triển của trẻ.
Trong khi đó, bà, Berry và King cho rằng nghiên cứu không nên khuyến cáo những phụ nữ cần dùng thuốc không nên dùng thuốc ngay cả khi họ có thai, vì chứng trầm cảm có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng nếu không được điều trị.